Message :
Signature :
Background :
Share | 
 

 Ô nhiễm nước

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
river

river

Quản lý diễn đàn

Huy chương : Ô nhiễm nước Medal110Ô nhiễm nước Medal112
Tổng số bài gửi : 390
Điểm : 477
Được cảm ơn : 44
Ngày tham gia : 13/09/2010
Cơ quan (Trường, lớp) : Vinacet

Ô nhiễm nước Empty
Bài gửi Ô nhiễm nước EmptyÔ nhiễm nước   Ô nhiễm nước I_icon_minitimeMon Apr 04, 2011 9:40 am Bài viết số 1

Thế nào là ô nhiễm nước:
Ô nhiễm nước là sự xâm nhập của những chất hay tạp chất vào nguồn nước làm thay đổi thành phần và tính chất của nước. Sự thay đổi về tính chất này có hại cho hoạt động sống bình thường của con người và sinh vật bởi sự có mặt của một hay nhiều hóa chất lạ vượt quá ngưỡng chịu đựng của sinh vật. Nguồn gốc gây ô nhiễm nước có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo
Nguồn gốc tự nhiên của ô nhiễm nước là do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt. Các tác nhân trên đưa vào môi trường nước chất thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại, kể cả xác chết của chúng.
Nguồn gốc nhân tạo của ô nhiễm nước là do xả nước thải sinh hoạt, công nghiệp, giao thông vận tải, thuốc trừ sâu diệt cỏ và phân bón nông nghiệp....vào môi trường nước
Căn cứ vào các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân ra các loại ô nhiễm nước: ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô nhiễm hóa chất, ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi các tác nhân vật lý
Nguồn gây ô nhiễm
+ Nguồn điểm là các nguồn gây ô nhiễm có thể xác định được vị trí, kích thước, bản chất, lưu lượng phóng thải tác nhân gây ô nhiễm. Nguồn thải điểm chủ yếu: các cống xả nước thải
+ Nguồn không có điểm là các nguồn gây ô nhiễm không có điểm cố định, không xác định được vị trí, bản chất, lưu lượng tác nhân gây ô nhiễm. Thí dụ nước mưa chảy tràn qua đồng ruộng, đường phố, đổ vào sông rạch gây ô nhiễm nước
Một cách tổng quát, có thể định nghĩa ô nhiễm nước như sau: “Nước bị coi là ô nhiễm khi thành phần của nước bị thay đổi, hoặc bị hủy hoại làm cho không thể thể sử dụng nước cho mọi hoạt động của con người và sinh vật”.
Một khi, nguồn nước bị ô nhiễm, thành phần và bản chất của nguồn nước sẽ thay đổi, biến dạng.
- Thay đổi tính chất lý học (màu, mùi, vị, pH...)
- Thay đổi thành phần hóa học (tăng hàm lượng các hợp chất hữu cơ, các chất vô cơ, các hợp chất độc...)
- Thay đổi hệ vi sinh vật có trong nước (làm tăng hoặc giảm số lượng vi sinh vật hoại sinh, vi khuẩn và virus gây bệnh...) hoặc xuất hiện trong nước các loại sinh vật mà trước đây không có trong nguồn nước.
Ô nhiễm bắt nguồn từ đâu?
Ô nhiễm nước do nước thải khu dân cư
Nước thải từ hộ gia đình, bệnh viện, khách sạn, trường học, cơ quan, chứa các chất thải trong quá trình sinh hoạt, vệ sinh của con người được gọi chung là nước thải sinh hoạt, nước thải từ khu dân cư hoặc nước thải vệ sinh
Ô nhiễm nước do nước thải công nghiệp
Nước thải công nghiệp là nước thải từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải.
Nước thải công nghiệp không có đặc điểm chung mà phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngành sản xuất.
Ô nhiễm nước do nước chảy tràn mặt đất
Nước chảy tràn từ mặt đất do nước mưa hoặc do thoát từ đồng ruộng là nguồn gây ô nhiễm nước sông, hồ, nước rửa trôi qua đồng ruộng có thể cuốn theo chất rắn (rác), hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón. Nước rửa trôi qua khu dân cư, đường phố, cơ sở sản xuất công nghiệp có thể là ô nhiễm nguồn nước do chất rắn, dầu mỡ, hóa chất vi trùng..

Quá trình tự làm sạch của nước
Các quá trình phân hủy, tách và lắng đọng các chất trong nước xảy ra trong điều kiện tự nhiên. Đó là quá trình tự làm sạch của nước. Quá trình này có thể phân ra hai nhóm:
+ Quá trình vật lý như hấp phụ, keo tụ, lắng, phân ly, tách các chất ô nhiễm ra khỏi nước. Ví dụ để lắng các chất không tan làm cho nước trong.
+ Quá trình hóa học sinh học gồm các phản ứng thủy phân, oxy hóa khử, polyme hóa nhờ có men hoặc vi khuẩn xúc tác làm cho chất ô nhiễm trở nên ít độc hoặc không độc.
Quá trình tự làm sạch nước tự nhiên diễn ra dễ dàng và nhanh chóng ở dòng sông, dòng chảy; còn ở hồ tĩnh lặng chậm chạp hơn. Hơn nữa dưới tác dụng của bức xạ mặt trời quá trình quang hợp tăng: tiêu thụ nhiều CO2 hơn, sinh lượng oxy nhiều hơn giúp làm sạch nước tự nhiên tốt hơn.
Khi cân bằng động làm sạch tự nhiên bị phá vỡ, chất ô nhiễm quá lớn, cần sử dụng làm sạch nhân tạo. Kỹ thuật xử lý nước phục vụ cho trường hợp này.
Những tác hại và bệnh gây ra do ô nhiễm nước
Ô nhiễm nước do tác nhân vật lý và hóa học
- Các hạt chất rắn
Các hạt lơ lửng trong nước bao gồm nhiều loại hạt hợp chất hữu cơ và vô cơ.
Một vài chất, do kích thước nhỏ, nên lơ lửng trong cột nước và tạo ra độ đục cho nguồn nước, một số chất khác ở dạng hạt lớn hơn lại chìm xuống đáy tồn tại ở dạng trầm tích đáy. Các hạt lơ lửng trong nước có nguồn gốc đầu tiên là từ hiện tượng xói mòn đất, từ các dòng nước mưa chảy tràn qua đô thị, qua các vùng đất nông nghiệp và các khu vực xây dựng. Cùng với các quá trình xói mòn tự nhiên, các hoạt động như phá hủy các thảm cây xanh, tăng cường các hoạt động nông nghiệp trên các vùng đất dốc, gia tăng các bề mặt không thấm nước đã gây ra hiện tượng xói mòn quá mức tà tạo ra một lượng trầm tích lớn lắng tụ hoặc lơ lững trong các dòng sông.
Các hạt lơ lửng gây ra rất nhiều tác hại cho sức khỏe con người, bởi vì chúng có thể giúp chuyển tải các vi sinh vật gây bệnh vào nguồn nước và đóng vai trò chuyển tải các chất độc, chất dinh dưỡng cũng như kim loại nặng vào nước. Do sự gia tăng các hạt lơ lửng trong nước làm giảm cường độ ánh sáng khuyếch tán trong nước, các hệ sinh thái thủy vực bị ảnh hưởng mạnh.
Việc thiếu ánh sáng làm cho các loài thực vật thủy sinh không thể phát triển được. Ngoài ra do sự tích tụ quá nhiều các hạt trầm tích nên các đặc điểm thủy văn của các nguồn nước cũng bị thay đổi, thường dẫn đến giảm thể tích chứa của hồ nước.
Ô nhiễm nhiệt
Do nhiều hoạt động trên lưu vực dẫn đến nhiệt độ biên của các dòng nước tăng lên bất thường. Khi nhiệt độ biên tăng lên 30C có thể gây ra nhiều tác động cho các hệ sinh thái thủy vực. Các dòng nước nóng đổ vào các nguồn nước thường là từ các nhà máy nhiệt điện, các cơ sở công nghiệp, và phổ biến hơn cả là các dòng nước mưa có nhiệt độ cao. Thêm vào đó do các hoạt động trong quá trình đô thị hóa càng làm gia tăng các dòng nước nóng tự nhiên. Khi nhiệt độ của nước cao hơn bình thường, các kim loại như đồng, cadmi được tích lũy trong các thủy sinh vật tăng lên gấp đôi. Hơn nữa các ảnh hưởng trực tiếp của việc gia tăng nhiệt độ lên hệ thống sinh vật thủy sinh còn là đẩy mạnh quá trình tích tụ sinh học các kim loại độc trong chuỗi thức ăn. Do ảnh hưởng của ô nhiễm nhiệt số lượng fecal coliorm sẽ tăng từ 100 lên 1000 các thể trong trầm tích đáy. Một vài loại vi khuẩn và tảo lại phát triển rất mạnh trong điều kiện nhiệt độ cao này, dẫn đến chi phí về khử trùng tăng lên. Ngoài ra chúng còn kéo theo nhiều rắc rối khác liên quan đến sự xuất hiện mùi, vị khó chịu, nước có màu sẫm hơn, thay đổi pH, phóng thải các chất độc và giảm lượng oxi hòa tan
Các hợp chất hữu cơ
Hóa chất hữu cơ bao gồm các loại thuốc bảo vệ thực vật (thuốc trừ sâu, diệt côn trùng, diệt nấm, diệt cỏ dại và diệt chuột), các chất tẩy dầu mỡ, các dung môi hữu cơ và nhiều hợp chất sử dụng trong công nghiệp nhựa; các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi như benzen, xăng dầu. Một vài hợp chất hữu cơ trong số đó có thể kết hợp với các hóa chất khử trùng, tẩy uế, thí dụ THM (trihalogen
methan)
Các tác động lên sức khỏe tùy thuộc hoàn toàn vào tính chất các hợp chất hữu cơ và liều lượng con người hấp thu vào. Một vài loại thuốc trừ sâu và dung môi hữu cơ có thể gây ung thư, một số khác lại gây tác hại đến các cơ quan nội tạng của con người, một số khác có khả năng gây đột biến gen
Có một số loài tảo lam có khả năng quang hợp tạo ra độc tố cyanua (cyanotoxin), khi các tế bào tảo chết, chúng bị phân hủy và phóng thải các cyanua vào nước. Các căn bệnh do nhiễm các chất độc này thường là các bệnh về gan, rối loạn tiêu hóa, viêm loét dạ dày, dị ứng ngoài da do tiếp xúc nước như các hoạt động vui chơi giải trí. Các báo cáo về sức khỏe cộng đồng trong khoảng 60 năm trở lại đây cho bết rằng không có trường hợp tử vong nào nhưng có mối quan hệ giữa các bệnh đường ruột, ngộ độc với hiện tượng tảo nở hoa tạo ra độc tố trong nguồn nước là rất chặt chẽ.
- Hóa chất bảo vệ thực vật: đó là những chất độc có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp hóa học, được dùng để phòng trừ sinh vật có hại cho cây trồng và nông sản với các tên gọi khác nhau: thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh, thuốc trừ cỏ, v.v...Có thể chia thuốc bảo vệ thực vật thành ba nhóm cơ bản:
- Nhóm Clo hữu cơ, gồm các hợp chất hóa học chứa gốc Cl rất bền vững trong môi trường tự nhiên, với thời gian phân hủy dài. Thuộc về nhóm này có Aldrin, Diedrin, DDT, Heptachlor, Lindane, Endrin, v.v...
- Nhóm lân hữu cơ: bao gồm hai hợp chất là Parathion và Malathion. Nhóm này có thời gian phân hủy ngắn so với nhóm clo hữu cơ, nhưng thường có độ độc cao đối với người và động vật
- Nhóm cacbamat: gồm các hóa chất ít bền vững trong môi trường, nhưng cũng rất độc đối với người và động vật. Đại diện cho nhóm này là các hợp chất gốc cacbamat như Sevi, Puradan, Basa, Mipcin. Chúng có tác động trực tiếp vào men cholinesteraza của hệ thần kinh côn trùng
Trong sản xuất nông nghiệp chỉ có một phần thuốc bảo vệ thực vật tác động trực tiếp tới sâu bệnh. Phần còn lại rơi vào nước, đất và tích lũy trong các thành phần của môi trường hoặc sản phẩm nông nghiệp gây ô nhiễm môi trường
Dầu mỡ
Dầu mỡ là các hợp chất khó tan trong nước, tan trong các dung môi hữu cơ. Dầu mỡ có thành phần hóa học rất phức tạp. Độc tính và tác động sinh thái của dầu mỡ phụ thuộc vào từng loại dầu. Dầu thô có chứa hàng ngàn phân tử khác nhau, nhưng phần lớn là các hydrocacbon có số cacbon từ 4 đến 26. Trong dầu thô còn có các hợp chất lưu huỳnh, nitơ, kim loại nặng (vanadi). Các loại dầu nhiên liệu sau khi tinh chế (dầu DO, FO) và một số sản phẩm dầu mỡ còn chứa các chất độc như hydrocacbon đa vòng (PHA), polyclobiphenyl (PCB), kim loại (chì). Do đó dầu mỡ có tính độc cao và tương đối bền vững trong môi trường nước
Các kim loại nặng
Kim loại nặng là những nguyên tố có tỉ trọng > 5. Các kim loại nặng có trong nước uống thường được xem là các kim loại lượng vết, vì chúng thường có tác dụng ở một nồng độ cực kỳ bé. Dưới đây là một số kim loại nặng và sự liên quan của chúng đến môi trường và chất lượng nước
- Cadmi xâm nhập vào nguồn nước từ các hoạt động công nghiệp như mạ điện, đúc kim loại, khai thác mỏ, sản xuất sơn màu và chất dẻo. Các dòng nước chảy qua thành phố cũng đóng góp một lượng Cadmi đáng kể. Cadmi được U.S EPA (Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ) xác định là có thể gây ung thư. Ở hàm lượng thấp cadmi có thể gây nôn mửa, nếu bị ảnh hưởng lâu dài sẽ gây rối loạn chức năng của thận. Hàm lượng cao có thể gây tử vong
- Crôm được tìm thấy từ chất thải của nhà máy tráng mạ kim loại, các khu khai thác mỏ, từ khí thải động cơ. Crôm ở trạng thái hóa trị III là một nguyên tố cần thiết cho quá trình sống; nhưng khi ở dạng hóa trị IV nó trở nên rất độc hại đối với gan và thận, có thể gây xuất huyết nội và rối loạn hô hấp. Khi hít phải crom thì có thể gây ra các bệnh ung thư. Nếu tiếp xúc thường xuyên với crôm sẽ bị viêm loét da
- Đồng tìm thấy trong các dòng suối có nguồn gốc từ núi đá trần, từ hoạt động xử lý tảo sử dụng sunphat đồng. các dòng nước mưa đô thị thường được xem là một trong những nguồn cung cấp đồng lớn. Hầu hết lượng đồng có trong nước máy là do sự ăn mòn của các ống dẫn làm bằng đồng và đồng thau. Đồng là một nguyên tố cần thiết phải có trong cơ thể, nhưng nếu ăn quá nhiều thì cũng gây ra nhiều căn bệnh ác tính. Ở hàm lượng cao đồng sẽ phá hủy gan và thận, gây rối loạn tiêu hóa và tình trạng thiếu máu. Hiện tại chưa có bằng chứng rõ ràng để có thể kết luận đồng có thể gây ung thư hay không
- Chì đã được U.S EPA xác định là một trong những chất ô nhiễm phổ biến nhất trong các dòng nước mưa đô thị. Trong nước máy, hầu hết lượng chì tìm thấy là do sự bào mòn các ống dẫn làm bằng chì hoặc được hàn bằng chì. Chì có thể là nguyên nhân gây ra rất nhiều triệu chứng ốm đau như thiếu máu, đau thận, rối loạn khả năng sinh sản, suy giảm trí nhớ và kìm hãm các quá trình phát triển trí tuệ cũng như cơ bắp. Dựa trên nghiên cứu về các khối u ở chuột U.S EPA đã kết luận rằng chì là chất có khả năng gây ung thư
- Thủy ngân là kim loại gây ô nhiễm nước liên quan đến sự lắng tụ từ không khí, từ các dòng nước mưa đô thị, các xí nghiệp dược, việc sử dụng thuốc trừ sâu và các bãi rác. Trong nước, thủy ngân thường tồn tại ở dạng muối.Trong các trầm tích và trong cơ thể sinh vật thủy sinh nó tồn tại ở dạng hữu cơ. Thủy ngân khi ở dạng hữu cơ (ví dụ tồn tại trong cơ thể cá với hàm lượng cao) sẽ tác động trực tiếp lên hệ thần kinh trung ương gây rối loạn hệ thần kinh vận động và tâm lý và có thể gây tử vong. Ở dạng vô cơ, thường tìm thấy trong nước, thủy ngân có thể gây suy giảm hoạt động của thận
- Nikel rất hay được tìm thấy trong các nguồn cung cấp nước uống. Theo nghiên cứu của U.S EPA đã xác định rằng 86% các nguồn nước ngầm và 84% các nguồn nước mặt có chứa một lượng nhỏ nikel. Các nguồn nikel có thể là từ nhà máy luyện kim, các xưởng mạ kim loại, các lò rèn, các khu mỏ, các nhà máy lọc dầu. Nikel không bị hấp thu trong dạ dầy. Ở hàm lượng lớn có thể gây ra các căn bệnh trầm trọng cho sức khỏe con người. Nikel làm sút cân và thay đổi hệ thống enzym và máu. Khi hít phải nhiều nikel có thể bị ưng thư. U.S EPA xếp nikel vào loại chất có thể đột biến và ung thư.
- Magan: nguồn mangan trong nước thường do quá trình thối rửa, xói mòn và do nhiễm chất thải từ công nghiệp luyện kim màu, sản xuất thép, accu khô, phân bón...Mangan có độc tính không cao nhưng có khả năng ảnh hưởng đến vị giác. Trong nước sông có nồng độ: 1-500 g/L
Các chất phóng xạ
Các chất phóng xạ là các nguyên tử có thể phát ra các tia phóng xạ trong quá trình phân rã. Chúng có thể ở dạng khí (radon) hoặc ở dạng kim loại (radium), có thể có nguồn gốc nhân tạo và cũng có thể có nguồn gốc tự nhiên. U.S EPA đã đưa ra qui định về tổng lượng hạt anpha hoạt động và các hoạt động của tia beta các hạt photon và radium 226 và 228. Nếu các phép đo về tổng lượng hạt anpha và /photon vượt quá tiêu chuẩn cho phép thì bắt buộc phải thu thêm thông tin để xác định ra nguồn phát sinh của các hạt này. U.S EPA rất lưu ý đến các chất phóng xạ trong nước uống có chu kỳ bán rã dài hơn một giờ. Những chất phóng xạ loại này sẽ có khả năng tồn tại đủ lâu trong nước uống đi vào tận đường tiêu hóa của người uống, do vậy sẽ gây ra các tác hại đối với sức khỏe. Các chất phóng xạ có trong nước chủ yếu có nguồn gốc tự nhiên. Nơi có hàm lượng phóng xạ cao nhất là ở các giếng có đáy là đá granit. Nói chung các nguồn nước mặt thường có nồng độ phóng xạ thấp, mặc dù trong không khí vẫn luôn tồn tại một lượng rất bé bụi phóng xạ do các vụ thử hạt nhân. Nguồn phóng xạ còn có thể là từ các trung tâm y tế có sử dụng các máy X quang, các trung tâm y học hạt nhân có sử dụng các nguồn phóng xạ để xử lý bướu hoặc các khối u ung thư. Các nhà máy điện hạt nhân, các chất thải phóng xạ, các phương tiện nghiên cứu có nguồn phóng xạ đều có khả năng phát ra các tia bức xạ. Các nhà máy công nghiệp như thuốc lá, chế biến thực phẩm, sản xuất khai thác vật liệu xây dựng như đá, cát đều được xem là các nguồn thải chất phóng xạ vào nguồn nước uống. Các chất phóng xạ là nguyên nhân của nhiều căn bệnh ung thư do chúng làm thay đổi các cấu trúc của nhiễm sắc thể trong các tế bào. Hơn nữa các đột biến gen này còn mang tính chất di truyền. Các ảnh hưởng đến sức khỏe là do tổng liều lượng bức xạ cơ thể hấp thu. Với tia beta/phôtông, EPA qui định tổng liều lượng an toàn cho một người là 4 mrem/năm. Thực ra phóng xạ cơ thể thu nhận từ nước uống là rất ít, mà lượng phóng xạ chủ yếu gây ra các rủi ro cho sức khỏe đặc biệt là các ca ung thư phổi là phóng xạ từ khí radon phát ra từ cát sạn, đá xây nhà.
Ô nhiễm nước do tác nhân sinh học
Hầu hết các vi sinh vật gây bệnh trong nước thường có nguồn gốc từ phân người, động vật, chúng xâm nhập vào nguồn nước, vượt qua các quá trình khử trùng và rồi tiến vào các ống dẫn nước. Các hệ thống hố xí, các dòng nước mưa từ các khu chợ búa, các trang trại chăn nuôi, do phân của các sinh vật hoang dã, chất thải từ thuyền bè chính là nguồn cung cấp các mầm bệnh cho các nguồn nước. Do các múi nối của ống dẫn vỡ, các bể chứa bị thủng và các hoạt động khử trùng không thích hợp chính là những cơ hội giúp vi sinh vật dễ dàng xâm nhập vào nước máy
Những tác nhân sinh học chính, truyền qua nước có thể xếp thành 4 loại: vi khuẩn, virus, ký sinh trùng và các loại vi sinh vật khác.
Sự nguy hại đến sức khỏe con người do uống nước trực tiếp, do ăn các loại thực phẩm, hoặc do sử dụng nước trong chế biến thức ăn, vệ sinh cá nhân...
Có thể phân loại ô nhiễm nước do tác nhân sinh học như sau:
- Virus
- Virus nhiễm qua đường tiêu hóa.
Khi nước uống bị nhiễm bẩn Virus đường ruột thì 3 bệnh có thể xảy ra thành dịch là viêm dạ dày ruột và viêm gan A.
Viêm dạ dày ruột nguồn gốc Virus có thể biến đổi theo các mầm bệnh, mà trong đó có nhiều loại nước được phân lập gần đây. Viêm dạ dày ruột thường kéo dài 24 - 72 giờ kèm theo buồn nôn, nôn mửa, ỉa chảy xảy ra ở mọi lứa tuổi. Trầm trọng nhất là trẻ nhỏ và người già khi mà sự mất nước và rối loạn cân bằng điện giải có thể xảy ra nhanh chóng và đe dọa tính mạng nếu như không được xử lý kịp thời.
Bệnh viêm gan A. Virus nhiễm qua đường tiêu hóa rồi thải ra phân và nhiễm vào nước. Viêm gan A xảy ra theo kiểu dịch địa phương; và thường bộc phát thành các vụ dịch quan trọng. Điều tra dịch tễ học đã chứng minh rằng: các đợt phát dịch gây ra bởi nước bị ô nhiễm do tiếp xúc với nước cống, phân... (năm 1956, ở New Deli một trận dịch viêm gan A xảy làm 28.000 người mắc bệnh). Virus viêm gan A có tính đề kháng cao ở môi trường bên ngoài, nó chịu được 600C trong một giờ, cần phải có hàm lượng chlor 1mg/ lít trong 30 phút mới làm bất động được virus.
Bệnh sốt bại liệt có sức đề kháng cao ở môi trường bên ngoài, muốn giết virus cần cho vào nước một liều lượng chlor hoạt tính là 0,5mg/ lít thời gian tiếp xúc 1 giờ. Các bệnh nhân và người lành mang trùng thường đào thải virus theo phân trong một thời gian có thể đến 3 tháng; các điều kiện này rất thuận lợi cho việc lây truyền bệnh qua nước uống.
- Virus nhiễm qua đường niêm mạc
Đó là Adênovirus, đóng vai trò trong bệnh viêm kết mạc. năm 1969 người ta đã phân lập Adênovirus từ 77 bệnh nhân, tất cả đều có tắm ở sông, hồ vài ngày trước khi khởi bệnh. Các virus này được xem là nguyên nhân gây ra bệnh viêm kết mạc ở các bể bơi công cộng.
- Ô nhiễm nước và bệnh viêm nhiễm đường sinh dục dưới
Vi sinh vật nhiễm qua đường sinh dục dưới
Nhiều công trình nghiên cứu trong nước cũng như trên thế giới cho biết: khi sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm thì nhiều loại tạp khuẩn có thể xâm nhập qua đường sinh dục dưới và gây bệnh viêm nhiễm phụ khoa cho phụ nữ.
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu cho thấy các phụ nữ nông dân trong quá trình lao động do phải ngâm mình dưới nước bị nhiễm bẩn hoặc sử dụng nguồn nước bị nhiễm bẩn để tắm rửa thì tỉ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới tăng cao đáng kể.
- Các vi khuẩn nhiễm qua đường tiêu hóa.
- Nhóm vi khuẩn gây bệnh cho người qua đường tiêu hóa thường có những đặc tính sinh học như sau:
Nơi cư trú thường là ruột người, hoặc ruột động vật máu nóng. Bệnh lây truyền qua phân: trực tiếp từ phân đến miệng hoặc gián tiếp qua trung gian thức ăn mà chủ yếu là nước bị nhiễm phân. Nhóm vi khuẩn này là nguyên nhân gây ra hầu hết các vụ dịch lớn, có nguồn gốc từ nước, trong lịch sử: dịch tả,dịch thương hàn và bệnh tương tự (do Salmonella Typhy, Para typhy B và vài typ lân cận) dịch lỵ trực khuẩn (do Shigella). Mức độ nghiêm trọng của các vụ dịch kế tiếp, đã khiến cho suốt những thập niên sau này, việc phòng ngừa và xử lý nước đều hướng chủ yếu vào mục đích là chống lại các nguy cơ nêu trên.
- Các nguyên sinh động vật
Trong số nhiều loại nguyên sinh động vật gây bệnh cho người, gồm có: Entamoeba histolytica (Rhizopda) gây bệnh kiết lỵ amib, Giardia intestinalis (trùng soi, plagellata) và Balantidium coli cả 3 loại trên đều gây nên rối loạn đường ruột đôi khi khá nghiêm trọng. Chúng được đào thải theo phân ở dạng kén bền vững. Người bị nhiễm qua đường tiêu hóa. Kén của các loài nguyên sinh động vật trên đây có thể tồn tại trong nước từ 2 đến 3 tuần, các loại kén này rất bền vững với các tác nhân tiệt khuẩn thông thường, ngược lại chúng bị cản trở bởi lọc. Muốn tiêu diệt kén phải dùng lượng chlor 5mg/l trong 1 giờ hoặc đun nước trên 600C.
- Giun sán
Chu trình các loài giun sán thường phức tạp, đôi khi cần qua vài dạng ấu trùng trên vật chủ trung gian. Nhiều loài giun lây truyền qua nước như: giun đũa, tóc, kim. Do phân nhiễm vào nước, rồi trứng giun nở ra phôi trong nước gặp điều kiện thuận lợi thì nhiễm qua người.
Nước cũng đóng vai trò lây truyền bệnh sán cho người, mà đặc biệt quan trọng là 2 loại sau:
+ Sán máng Schistosomiasis Bệnh này chỉ lây truyền qua nước ngọt bị nhiễm sáng máng, bệnh xảy ra ở các nước nhiệt đới, đang phát triển. Sán máng gây bệnh nặng cho người, đôi khi gây tử vong, trên Thế giới có khoảng 200 triệu người bị nhiễm bệnh. Đường da, niêm mạc là đường lây truyền duy nhất. Chỉ cần tiếp xúc ngắn với nước cũng đủ cho vậy ký sinh có thể chui qua da và cơ thể. (Lội qua sông, hói cạn, trẻ con tắm ở các ao hồ, sông chứa ấu trùng sán). Chỉ một con ấu trùng cũng đủ gây bệnh. Việc cung cấp nước sạch để tắm rửa, sẽ hạn chế tiếp xúc của người với nguồn bệnh.
+ Sán lá gan (Clonorchis sinensis) thường gây bệnh ở vùng ôn đới. Sán ký sinh ở gia súc (cừu, bò, chó, mèo). Trứng cho các ấu trùng có tiêm mao trong môi trường nước bên ngoài, các phôi này nhiễm vào các loại nhuyễn thể là ký chủ trung gian. Sau khi biến dạng và tăng sinh các tiêm mao cho ra các ấu trùng, sống một thời gian trong nước và đóng kén trong nước ấy (trên bề mặt các thực vệt dưới nước như xà lách xoong ; các loại cá: rô, trê, diếc). Người và vật bị nhiễm khi uống nước ao hồ, khi ăn rau hoặc cá có mang các kén ấy.
Ở Việt Nam, theo Leger năm 1911 tỷ lệ bị nhiễm sán lá gan ở miền Bắc là 50%. Hiện nay một số xã thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Hà Nam Ninh cũ tỷ lệ bệnh này là 40%.
+ Sán lá ruột (Fassei-slipsiasis)
Ấu trùng từ phân người nước ốc, bám dính vào các loại rau nuôi trồng trong nước (rau cần, rau muống...). Nếu người ăn loại rau này (không rửa sạch, không nấu chín) sẽ mắc bệnh sán lá ruột.
+ Sán lá phổi (Paragonimiasis) Trong những năm gần gây các nhà y học Việt Nam đã phát hiện một số bệnh nhân ở tỉnh Lai Châu mắc bệnh sán lá phổi, trong đó có một số học sinh ăn sống các con cua đá bắt được ở ven các dòng suối nước.
Các biên pháp bảo vệ sự cạn kiệt và ô nhiễm nguồn nước
Để bảo đảm sử dụng hợp lý nguồn nước hạn chế cạn kiệt, dưới góc độ sinh thái cần chú ý đến một số nguyên tắc sau:
- Bố trí khu sản xuất hoặc khu dân cư gần các nguồn nước, quy mô các khu này cần tính toán phù hợp với tiềm năng nguồn nước kể cả trước mắt và tương lai.
- Nghiên cứu áp dụng các phương pháp tiết kiệm sử dụng nước (tính theo đơn vị sản phẩm hay đầu người).
- Nghiên cứu chuyển công nghệ khép kín và nối tiếp nhau, theo một trình tự hợp lý: một lượng nước sử dụng cho nhiều đối tượng.
- Nghiên cứu sử dụng lại nước thải cho mục đích khác.
- Nghiên cứu chuyển một số công nghệ sản xuất dùng nước sang công nghệ mới.
Ví dụ: dùng không khí thay nước làm mát.
- Nghiên cứu chính sách kinh tế làm đòn bẩy cho việc tiết kiệm sử dụng nước.

Nguồn: http://hsevn.com/forum/showthread.php?332-%C3%94-nhi%E1%BB%85m-n%C6%B0%E1%BB%9Bc
Về Đầu Trang Go down
 

Ô nhiễm nước

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 

 Xem thêm các bài viết khác cùng chuyên mục

-
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
diachatthuyvan.net™ :: THẢO LUẬN ĐỊA CHẤT - KHOÁNG SẢN VÀ MÔI TRƯỜNG :: Lĩnh vực địa chất môi trường-
Chuyển đến 
Powered by: phpBB2
Copyright ©2010 - 2015, GNU General Public License.
Skin vBulletin 4.0 Rip By Ligerv
Múi giờ hiện tại GMT. Hôm nay: Thu May 02, 2024 1:57 pm.
Liên hệ: diachatthuyvan.com@gmail.com | Hiển thị tốt nhất trên trình duyệt Firefox và độ phân giải 1024x768 trở lên.

Website liên hệ-Trung tâm thông tin lưu trữ địa chất - Cục địa chất Việt NamCục quản lý tài nguyên nướcHội ĐCTV VNTrường ĐH Mỏ - Địa chất Hà NộiHợp tác đào tạo nước ngoài ĐH Mỏ - Địa chất Hà NộiKhoa địa chất và dầu khí ĐH Bách Khoa Tp HCMDiễn đàn diachatvietnam.netLiên đoàn QH và ĐT TNN miền NamCông ty Cổ Phần Phát triển bền vững Việt NamCông ty Cổ phần TV ĐT PT CNMT Việt NamCông ty Cổ phần Địa kỹ thuật Đông DươngCông ty VietDeltaCông ty tài nguyên và môi trườngDiễn đàn lớp địa chất B K55Diễn đàn tình thương
Chat ( )
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất